Poziotinib điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có đột biến chèn HER2 tại Exon 20

Poziotinib điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC)

đột biến chèn HER2 tại Exon 20

                                                                                                                                                                                                  Ngày 07 tháng 12 năm 2021

                                                                                                                                                                                                       Tác giả: Kristi Rosa

    Một đơn đăng ký thuốc mới đã được đệ trình lên FDA chờ sự chấp thuận Poziotinib như một lựa chọn điều trị tiềm năng cho những bệnh nhân bị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) di căn hoặc tiến triển tại chỗ đã được điều trị trước đó với đột biến chèn HER2 exon 20.

    Một đơn đăng ký thuốc mới tìm kiếm sự chấp thuận của poziotinib như một lựa chọn điều trị tiềm năng cho những bệnh nhân bị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) di căn hoặc tiến triển tại chỗ đã được điều trị trước đó với đột biến chèn HER2 exon 20 đã được đệ trình lên FDA. 1

Ứng dụng được hỗ trợ bởi các phát hiện từ thuần tập 2 của thử nghiệm ZENITH20 giai đoạn 2 (NCT03318939), cho thấy tác nhân gây ra tỷ lệ phản ứng khách quan (ORR) là 27,8% (KTC 95%, 18,9%-38,2%) trong quần thể bệnh nhân này. 2 Hơn nữa, thời gian trung bình của đáp ứng (DOR) với thuốc là 5,1 tháng (KTC 95%, 4,2-5,5) và thời gian sống thêm không tiến triển trung bình là 5,5 tháng (KTC 95%, 3,9-5,8).

Joe Turgeon, Chủ tịch – Giám đốc điều hành của Spectrum Pharmaceuticals, cho biết “Việc đệ trình NDA cho Poziotinib đánh dấu một bước quan trọng trong việc đạt được phương pháp điều trị đầu tiên cho những bệnh nhân có đột biến chèn HER2 exon 20 trong bệnh ung thư phổi”. 

Thử nghiệm ZENITH20 đa trung tâm, đa cộng tuyến, nhãn mở, giai đoạn 2 bao gồm 7 nhóm bệnh nhân mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC). Nhóm 1 gồm các bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có đột biến gen EGFR tại exon 20 đã được điều trị trước đó và nhóm 2 bao gồm các bệnh nhân có đột biến HER2 Exon 20, nhóm 3 đã ghi danh những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có đột biến gen EGFR tại exon 20 chưa từng được điều trị và nhóm 4 vẫn đang thu nhận những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có đột biến HER2 exon 20 đang được điều trị ở cơ sở đầu tiên.

    Các nhóm từ 5 đến 7 đang thu nhận những bệnh nhân:

– Những bệnh nhân chưa từng điều trị hoặc chưa từng điều trị với đột biến chèn HER2 exon 20;

– Bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có đột biến gen EGFR cổ điển tiến triển khi điều trị bằng Osimertinib bước đầu (Tagrisso) và phát sinh thêm đột biến EGFR;

– Bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có nhiều loại đột biến ít phổ biến hơn ở EGFR hoặc HER2 exons 18 đến 21 hoặc các vùng ngoại bào hoặc xuyên màng.

    Điều kiện đăng ký tham gia nhóm 2, bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, trước đó đã được điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển tại chỗ hoặc di căn và đã ghi nhận các đột biến chèn HER2 exon 20. Những người đã có di căn não được cho phép nếu họ ổn định, không có triệu chứng và không cần dùng Corticosteroid liều cao hoặc tăng liều.

    Những người đăng ký vào nhóm thuần tập 2 được uống Poziotinib với liều 16 mg mỗi ngày một lần ở cơ sở ngoại trú trong mỗi chu kỳ điều trị 28 ngày trong tối đa 24 tháng. Nếu bệnh nhân gặp phải các tác dụng phụ (AE), họ được phép giảm liều với liều tăng dần 2 mg. Cho phép ngắt liều lên đến 28 ngày.

    Điểm kết thúc chính của thử nghiệm là ORR và các điểm cuối thứ cấp chính bao gồm tỷ lệ kiểm soát bệnh tật (DCR), DOR và PFS cũng như tính an toàn và khả năng dung nạp. Các nhà điều tra cũng đánh giá chất lượng cuộc sống.

    Tổng cộng 90 bệnh nhân đã được ghi danh vào cuộc thử nghiệm từ tháng 10/2017 đến 03/2021. Độ tuổi trung bình của những bệnh nhân này là 60 tuổi (phạm vi, 25-86), 64,4% là nữ, 77,8% là người da trắng, 65,6% chưa bao giờ hút thuốc và 57,8% bệnh nhân có tình trạng hiệu suất ECOG là 1.

Trong đó: 96,7% có là ung thư biểu mô tuyến và 3,3% có mô học là ung thư biểu mô tế bào vảy. 25,6% bệnh nhân có di căn hệ thần kinh trung ương (CNS) ổn định tại thời điểm vào nghiên cứu.

Số lượng trung bình của các dòng điều trị trước là 2 (phạm vi, 1-6), với 30% bệnh nhân đã nhận được 1 dòng trước, 31,1% đã nhận được 2 dòng trước và 38,9% đã nhận được 3 hoặc nhiều hơn các dòng trước đó. Hơn nữa, 96,7% trước đây đã từng điều trị bằng bạch kim, 67,8% đã dùng thuốc ức chế trạm kiểm soát trước đó, 27,8% trước đó đã dùng thuốc chống HER2 và 65,6% trước đó đã trải qua cả hóa trị và ức chế trạm kiểm soát.

    Trong số 90 bệnh nhân được điều trị, 25 bệnh nhân đạt được đáp ứng một phần và không có đáp ứng hoàn toàn. Trong 25 người thời gian trung bình để phản hồi là 32 ngày (phạm vi, 23-183). DCR với Poziotinib trong nhóm thuần tập này là 70% (KTC 95%, 59,4% -79,2%). Trong quần thể đánh giá gồm 74 bệnh nhân, ORR với tác nhân là 35,1% (95% CI, 24,4% – 47,1%) và DCR là 82,4% (95% CI, 71,8% -90,3%). Hầu hết các bệnh nhân đều trải qua sự co lại của khối u. 37,8% (KTC 95%, 25,5% -50,0%) bệnh nhân không có tiến triển của bệnh sau 6 tháng.

    Các phân tích bổ sung cho thấy tác nhân cũng mang lại lợi ích trên các tập hợp con. ORR với Poziotinib ở những bệnh nhân đã điều trị trước 3 đợt trở lên là 37,1% (KTC 95%, 21,5% – 55,1%); ở những người được điều trị 2 hoặc 1 dòng, tỷ lệ này lần lượt là 21,4% (95% CI, 8,3% – 41,0%) và 22,2% (95% CI, 8,6% – 42,3%).

    26,2% bệnh nhân được ức chế điểm kiểm tra trước đã phản ứng với Poziotinib. 25 trong số những bệnh nhân này trước đây đã nhận được chất chống HER2 với 1 hoặc nhiều kháng thể hoặc liên hợp kháng thể – thuốc và tất cả đều đã được hóa trị trước đó. 3 bệnh nhân trước đó đã được dùng Trastuzumab (Herceptin) Afatinib (Gilotrif); 1 đã nhận được Trastuzumab và Neratinib (Nerlynx).

    Trong số 14 bệnh nhân có di căn thần kinh trung ương ổn định tại thời điểm nhập viện, Poziotinib tạo ra ORR là 28,6%. PFS trung bình trong nhóm bệnh nhân này là 7,4 tháng. 1 bệnh nhân có 2 tổn thương não ban đầu được phát hiện không có cả 2 tổn thương trên 2 hoặc nhiều lần chụp MRI sau khi điều trị bằng Poziotinib. 9 bệnh nhân khác trong số này trải qua bệnh ổn định thần kinh trung ương.

    Về tính an toàn, tất cả bệnh nhân đều trải qua các phản ứng cấp cứu khi điều trị và 97,8% trường hợp nhiễm độc liên quan đến điều trị đã được báo cáo; 78,9% các tác động này là mức độ 3 ở mức độ nghiêm trọng và 4,4% ở mức độ 4.

    Các độc tính thường gặp nhất được báo cáo với Poziotinib bao gồm phát ban (91,1%), tiêu chảy (82,2%) và viêm niêm mạc miệng (68,9%). Độc tính cấp 3 trở lên phổ biến nhất bao gồm phát ban (48,9%), tiêu chảy (25,6%) và viêm niêm mạc miệng (24,4%). Các AE nghiêm trọng liên quan đến điều trị (TRAEs) là phát ban (3,3%), suy nhược (2,2%), tiêu chảy (2,2%), mất nước (2,2%) và viêm niêm mạc miệng (2,2%).

    4,4% bệnh nhân trải qua TRAE cấp 4 với Poziotinib, bao gồm viêm niêm mạc miệng, khó thở, hạ kali máu, hạ calci huyết và viêm tụy tái phát. Một bệnh nhân cho biết bị viêm phổi cấp độ 5.

    Tháng 03 năm 2021, FDA đã cấp chỉ định theo dõi nhanh Poziotinib để sử dụng cho những bệnh nhân đã được điều trị trước đó có đột biến HER2 exon 20, dựa trên nhóm 3 của thử nghiệm ZENITH20. 3 Kết quả cho thấy Poziotinib tạo ra ORR là 27,8% (KTC 95%, 18,4% -39,1%) và DCR là 86,1% ở những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) chưa từng điều trị với di căn có chứa đột biến EGFR exon 20. 4

   Khi được dùng với liều 8 mg hai lần mỗi ngày trong nhóm 5 của thử nghiệm, Poziotinib đã tạo ra ORR là 31,6% (n = 6/19). 5 Khi dùng với liều hàng ngày 16 mg hoặc 12 mg, ORR lần lượt là 15,8% (n = 3/19) và 15,8% (n = 3/19). Khi dùng với liều 6 mg ngày 2 lần, ORR là 5,3% (n = 1/19). Hơn nữa, dữ liệu từ nhóm 4 của thử nghiệm cho thấy tác nhân gây ra ORR là 43,8% (95% CI, 29,5% -58,8%). 6

    Tài liệu tham khảo

  1. Spectrum Pharmaceuticals nộp đơn đăng ký thuốc mới cho Poziotinib. Thông tin mới được đăng. Dược phẩm Spectrum; Ngày 06/12/2021.
  2. Le X, Cornelissen R, Garrassino M, et al. Poziotinib trong ung thư phổi không tế bào nhỏ chứa đột biến chèn HER2exon 20 sau các liệu pháp điều trị trước: Thử nghiệm ZENITH20-2. J Clin Oncol. Xuất bản ngày 29/11/2021.
  3. FDA cấp chỉ định theo dõi nhanh cho Poziotinib của Spectrum Pharmaceuticals. Thông tin mới được đăng. Dược phẩm Spectrum; Ngày 11/3/2021.
  4. Sacher A, Le X, Cornelissen R và cộng sự. Tính an toàn, khả năng dung nạp và hiệu quả sơ bộ của Poziotinib với chiến lược hai lần mỗi ngày trong ung thư phổi tế bào không mùi đột biến gen EGFR / HER2 exon 20. Trình bày tại: Đại hội ảo ESMO TAT; Ngày 1-2 tháng 3 năm 2021.
  5. Le X, Shum E, Suga J, et al. Poziotinib dùng hai lần mỗi ngày cải thiện tính an toàn và khả năng dung nạp ở những bệnh nhân có EGFR hoặc HER2 exon 20 NSCLC đột biến (ZENITH20-5). Trình bày tại: Hội nghị thường niên AACR 2021; 10 – 15 tháng 4 năm 2021.
  6. Cornelissen R, Sun S, Wollner M, et al. Hiệu quả và độ an toàn của Poziotinib trong điều trị NSCLC chưa từng có đột biến HER2 exon 20: một nghiên cứu đa quốc gia giai đoạn II (ZENITH20-4). Trình bày tại: Đại hội ESMO năm 2021; 16-21/9/2021.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

error: Content is protected !!